Hoạt động Chủ_nghĩa_McCarthy

Rất nhiều ủy ban chống cộng, và "Hội đồng đánh giá lòng trung thành" trong chính quyền liên bang, tiểu bang và địa phương, cũng như nhiều cơ quan tư nhân, đã tiến hành điều tra các công ty lớn-nhỏ đang nghi ngờ có thành viên Cộng sản đang làm việc.

Trong Quốc hội, các cơ quan chính điều tra các hoạt động của Cộng sản bao gồm Ủy ban điều tra hoạt động phi Hoa Kỳ thuộc Hạ viện (HUAC), Tiểu ban An ninh nội bộ Thượng viện và Tiểu ban thường trực Thượng viện về Điều tra . Từ năm 1949 đến 1954, tổng cộng 109 cuộc điều tra đã được thực hiện bởi những người này và các ủy ban khác của Quốc hội.[14]

Lực lượng hành pháp

Chương trình Đánh giá Lòng trung thành

Sắc lệnh 9835, được ký bởi Tổng thống Truman năm 1947

Trong chính phủ liên bang, Sắc lệnh 9835 của Tổng thống Truman đã khởi xướng một chương trình đánh giá lòng trung thành cho nhân viên liên bang vào năm 1947. Sắc lệnh này kêu gọi sa thải nếu có "căn cứ hợp lý... tin rằng những người này không trung thành với Chính phủ Hoa Kỳ."[15]

Khi Tổng thống Dwight Eisenhower nhậm chức vào năm 1953, ông đã củng cố và mở rộng chương trình đánh giá lòng trung thành của Truman, đồng thời giảm khả năng kháng cáo của các nhân viên đã bị sa thải. Hiram Bingham, Chủ tịch Hội đồng đánh giá lòng trung thành, nói rằng các quy định mới mà ông có nghĩa vụ phải thi hành "không phải là cách làm của người Mỹ".[16] Năm sau, nhà vật lý lý thuyết J. Robert Oppenheimer - giám đốc khoa học của Dự án Manhattan chế tạo quả bom nguyên tử đầu tiên, sau đó làm cố vấn cho Ủy ban Năng lượng nguyên tử - đã bị tước quyền miễn trừ an ninh sau phiên điều trần kéo dài bốn tuần.

Từ năm 1942, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ bắt đầu lập một danh sách các tổ chức mà họ cho là có ý định lật đổ chính phủ. Danh sách này lần đầu tiên được công khai vào năm 1948, khi nó bao gồm 78 tổ chức. Có thời điểm, danh sách lên tới 154 tổ chức, 110 trong số đó được xác định là Cộng sản.

J. Edgar Hoover và FBI

Giám đốc FBI, J. Edgar Hoover, năm 1961

Giám đốc Cục Điều tra Liên bang (FBI) J. Edgar Hoover đã thiết kế "chương trình an ninh - lòng trung thành" (loyalty-security program) cho Tổng thống Truman và các cuộc điều tra lý lịch nhân viên được thực hiện bởi các đặc vụ FBI. Đây là một chuyên án lớn, dẫn đến số lượng đặc vụ làm việc trong FBI được tăng từ 3.559 năm 1946 lên 7.029 người vào năm 1952. Sự lo lắng của Hoover về mối đe dọa cộng sản và các tiêu chuẩn xác định bằng chứng nghi phạm của ông đã dẫn đến hàng ngàn nhân viên chính phủ mất việc làm. Hoover luôn giữ quan điểm về việc giữ bí mật danh tính người tố giác; do vậy, hầu hết các đối tượng bị đánh giá "an ninh-lòng trung thành" không được phép kiểm tra chéo hoặc được biết danh tính của những người buộc tội họ. Trong nhiều trường hợp, họ thậm chí không được thanh minh về những gì họ đã bị buộc tội.[17]

Từ năm 1951 đến 1955, FBI đã thực hiện một chương trình bí mật mang tên "Chương trình trách nhiệm", phân phát các tài liệu ẩn danh với bằng chứng từ các hồ sơ của FBI về việc một số giáo viên, luật sư... có liên quan đến Cộng sản. Nhiều người bị buộc tội đã bị sa thải mà không cần thông qua qui trình tố tụng.[18]

FBI đã tham gia vào một số hành vi bất hợp pháp nhằm tìm thông tin về những người cộng sản, bao gồm các vụ trộm, đột nhập, mở thư và nghe lén bất hợp pháp.[19] Các thành viên của Hiệp hội Luật sư Quốc gia cánh tả (NLG) là một trong số ít luật sư sẵn sàng bào chữa cho khách hàng trong các vụ án liên quan đến cộng sản, và điều này khiến NLG trở thành mục tiêu chú ý của Hoover. Văn phòng của tổ chức này đã bị FBI đột nhập ít nhất 14 lần trong khoảng thời gian từ 1947 đến 1951.[20]

FBI cũng sử dụng các hoạt động bí mật bất hợp pháp để phá vỡ các nhóm chính trị cộng sản và bất đồng chính kiến khác. Năm 1956, Hoover thất vọng về các phán quyết của Tối cao Pháp viện đã hạn chế khả năng truy tố cộng sản của Bộ Tư pháp. Do vậy, lúc này, ông chính thức hóa một chương trình "chơi bẩn" bí mật dưới tên COINTELPRO (Chương trình Phản gián - Counter Intelligence Program).[19] Các hoạt động của COINTELPRO bao gồm việc dựng lên các tài liệu giả mạo để tạo ra sự nghi ngờ rằng có một người quan trọng trong tổ chức là người tố giác thông tin cho FBI, hoặc truyền bá tin đồn qua thư nặc danh, rò rỉ thông tin cho báo chí, kêu gọi kiểm toán IRS... Chương trình COINTELPRO tiếp tục hoạt động cho đến năm 1971.

Nhà sử học Ellen Schrecker gọi FBI là "thành phần quan trọng nhất của cuộc Thập tự chinh chống Cộng" và viết: "Nếu các chuyên gia, vào những năm 1950, biết được những gì họ được biết vào thập niên 1970, khi Đạo luật Tự do Thông tin bạch hóa hồ sơ của FBI, thì "Chủ nghĩa McCarthy" có lẽ sẽ được gọi là "Chủ nghĩa Hoover".[21]

Quốc Hội

Ủy ban Hạ viện về các hoạt động phi Mỹ

Ủy ban Hạ viện về các hoạt động phi Mỹ - thường được gọi là HUAC - là ủy ban chính phủ nổi bật và tích cực nhất tham gia vào các cuộc điều tra chống cộng. HUAC được thành lập vào năm 1938 và được gọi là Ủy ban Dies, được đặt theo tên của Dân biểu Hạ viện Martin Dies, người chủ trì nó cho đến năm 1944. HUAC đã điều tra một loạt các "hoạt động", bao gồm cả những hoạt động của người Mỹ gốc Đức trong Thế chiến II. Một bước tiến quan trọng đối với HUAC là việc điều tra các cáo buộc gián điệp được đưa ra chống lại Alger Hiss vào năm 1948. Cuộc điều tra này cuối cùng đã dẫn đến phiên tòa xét xử và kết án của Hiss về tội khai man, và đã chứng minh được sự hữu ích của các ủy ban quốc hội trong việc khám phá những âm mưu lật đổ của Cộng sản.

HUAC đã đạt được danh tiếng lớn nhất với cuộc điều tra về ngành công nghiệp điện ảnh Hollywood . Vào tháng 10 năm 1947, Ủy ban bắt đầu yêu cầu các nhà biên kịch, đạo diễn và các chuyên gia ngành công nghiệp điện ảnh khác làm chứng về tư cách thành viên bị nghi ngờ là thành viên Đảng Cộng sản Hoa Kỳ, liên kết với các thành viên hoặc ủng hộ niềm tin của họ. Tại những lời chứng này, một câu hỏi (thường được biết đến với tên "câu hỏi 64.000 đô la") đã được hỏi: "Bạn có đang hoặc đã từng là thành viên của Đảng Cộng sản Hoa Kỳ không?"[22] Trong số các nhân chứng ngành công nghiệp điện ảnh đầu tiên được ủy ban triệu tập, có mười người quyết định không hợp tác. Những người này, được biết đến với cái tên "Nhóm 10 người Hollywood" (Hollywood Ten), đã viện dẫn Tu Chánh án số 1 trong Hiến pháp, nói về sự tự do ngôn luận và tự do lập hội, mà họ tin rằng sẽ bảo vệ họ khỏi bị buộc phải trả lời các câu hỏi của ủy ban. Cách làm này đã thất bại, và mười người đã bị kết án tù vì tội không tuân lệnh Quốc hội. Hai trong số họ đã bị kết án sáu tháng, số còn lại là một năm tù.

Ủy ban Thượng viện

Tại Thượng viện, ủy ban chính điều tra những người cộng sản là Tiểu ban An ninh nội bộ Thượng viện (SISS), được thành lập năm 1950, nhằm đảm bảo thực thi các luật liên quan đến "gián điệp, phá hoại và bảo vệ an ninh nội bộ của Hoa Kỳ." SISS được lãnh đạo bởi Thượng nghị sĩ đảng Dân chủ Pat McCarran, vốn nổi tiếng nhờ các cuộc điều tra cẩn thận và sâu rộng. Ủy ban này đã dành một năm để điều tra Owen Lattolas và các thành viên khác của Viện Quan hệ Thái Bình Dương. Như đã được thực hiện nhiều lần trước đó, nhóm các học giả và nhà ngoại giao liên quan đến Lattimore (được gọi là Bàn tay Trung Quốc, tức chuyên gia am hiểu về Trung Quốc) đã bị buộc tội "đánh mất Trung Quốc". Ngoài ra, tuy Ủy ban đã tìm thấy một số bằng chứng về thái độ ủng hộ cộng sản, nhưng không có gì ủng hộ cáo buộc của McCarran rằng Lattimore là "một tay sai có ý thức và rõ ràng về âm mưu của Liên Xô". Lattolas bị buộc tội khai man trước SISS năm 1952. Sau khi nhiều cáo buộc đã bị một thẩm phán liên bang bác bỏ và một trong những nhân chứng thú nhận tội khai man, vụ án đã được bãi bỏ vào năm 1955.[23]

McCarthy đứng đầu Tiểu ban Thường trực Thượng viện về Điều tra vào năm 1953 và 1954, và trong thời gian đó, đã thực hiện các cuộc điều tra săn lùng cộng sản của ông. Ban đầu, McCarthy xem xét các cáo buộc về ảnh hưởng của cộng sản trong Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, và sau đó chuyển sang chương trình thư viện ở nước ngoài của Bộ Ngoại giao. Danh mục thẻ của các thư viện này đã được lùng sục để tìm kiếm các tác phẩm - tác giả McCarthy cho là không phù hợp. McCarthy sau đó công bố danh sách các tác giả được cho là thân Cộng trước tiểu ban và báo chí. Bị áp lực, Bộ Ngoại giao đã ra lệnh cho các thủ thư ở nước ngoài loại bỏ khỏi kệ của họ "tài liệu bởi những người gây tranh cãi, Cộng sản, cảm tình viên Cộng sản, v.v." Một số thư viện đã đốt những cuốn sách bị cấm.[24] Mặc dù không ngăn cản Bộ Ngoại giao thực hiện sắc lệnh này, Tổng thống Eisenhower cũng công khai chỉ trích sáng kiến này, nói với lớp tốt nghiệp của Đại học Dartmouth năm 1953: "Hãy đừng tham gia những người đốt sách! Không nên ngại đi đến thư viện và đọc mọi cuốn sách miễn là tài liệu đó không xúc phạm ý tưởng của chúng ta về sự đàng hoàng nên đó là sự kiểm duyệt duy nhất."[25] Sau đó, Tổng thống Eisenhower đã thỏa hiệp bằng cách chỉ áp dụng lệnh cấm đối với những cuốn sách Cộng sản do người Cộng sản viết, đồng thời cho phép các thư viện giữ sách về Chủ nghĩa Cộng sản được viết bởi những người chống Cộng.[26]

Ủy ban của McCarthy sau đó bắt đầu một cuộc điều tra về Quân đội Hoa Kỳ . Cuộc điều tra bắt đầu tại phòng thí nghiệm của Quân đoàn Tín hiệu tại Fort Monmouth. McCarthy thu được một số tiêu đề với những câu chuyện về một đường dây gián điệp nguy hiểm giữa các nhà nghiên cứu Quân đội, nhưng cuối cùng không có kết luận nào từ cuộc điều tra này.[27]

Danh sách đen

Vào ngày 25 tháng 11 năm 1947, một ngày sau khi Hạ viện phê chuẩn những thông tin đáng xấu hổ về Nhóm 10 người Hollywood (Hollywood Ten), Eric Johnston, chủ tịch Hiệp hội Điện ảnh Hoa Kỳ, đã ra thông cáo báo chí thay mặt cho những người đứng đầu các hãng phim lớn đến được gọi là "Tuyên bố Waldorf". Thông cáo này công bố quyết định sa thải nhóm Hollywood Ten và tuyên bố: "Chúng tôi sẽ không sử dụng một người Cộng sản hoặc thành viên của bất kỳ đảng hay nhóm nào ủng hộ việc lật đổ chính phủ Hoa Kỳ..." Điều này đánh dấu sự khởi đầu của Danh sách đen Hollywood (Hollywood Blacklist). Mặc dù hàng trăm người bị đuổi việc, nhưng các hãng phim, nhà sản xuất và các nhà tuyển dụng khác đã không công khai thừa nhận về danh sách đen này.

Những đạo luật và sự bắt giữ

Một số Đạo luật Liên bang được ra đời nhằm thúc đẩy việc bảo vệ Hoa Kỳ khỏi mối đe dọa về sự lật đổ của cộng sản. Đạo luật Đăng ký người nước ngoài (Alien Registration Act) hay còn gọi là Đạo luật Smith năm 1940 tuyên án tội hình sự nếu người dân thực hiện một trong những điều sau: "cố tình ủng hộ, hủy bỏ, khuyên bảo, hoặc giảng dạy... những ý định lật đổ Chính phủ Hoa Kỳ hoặc tiểu bang bằng vũ lực hoặc bạo lực, hoặc tham gia tổ chức hiệp hội dạy, tư vấn, hoặc khuyến khích việc lật đổ đó, hoặc trở thành thành viên hoặc liên kết với bất kỳ hiệp hội nào như vậy".

Từ năm 1941 đến 1957, hàng trăm người cộng sản và những người liên quan khác đã bị truy tố theo Đạo luật này. Mười một nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Hoa Kỳ đã bị kết án theo Đạo luật Smith năm 1949 trong phiên tòa Foley Square . Mười người đã bị kết án năm năm tù và một người bị kết án ba năm tù. Năm 1951, 23 nhà lãnh đạo khác của đảng đã bị truy tố, bao gồm Elizabeth Gurley Flynn, thành viên sáng lập của Liên minh Tự do Dân sự Hoa Kỳ. Nhiều người đã bị kết án dựa trên lời khai mà sau đó đã được thừa nhận là sai.[28] Đến năm 1957, 140 nhà lãnh đạo và thành viên của Đảng Cộng sản đã bị buộc tội theo luật, trong đó 93 người bị kết án.[29]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chủ_nghĩa_McCarthy http://www.authentichistory.com/1946-1960/4-cwhome... http://caselaw.findlaw.com http://oed.com/search?searchType=dictionary&q=McCa... http://www.openroadmedia.com/ebook/the-troubled-ai... http://www.oup.com/oxforddnb/info/freeodnb/librari... http://americanhistory.oxfordre.com/view/10.1093/a... http://www.press.uchicago.edu/Misc/Chicago/404811i... //dx.doi.org/10.1093%2Facrefore%2F9780199329175.00... http://www.mcslibrary.org/program/library/declarat... http://trumanlibrary.org/publicpapers/viewpapers.p...